Nguồn Gốc Của Bánh Pancake
Bánh pancake là gì?
Pancake (nghĩa là chiếc bánh rán trên chảo) là một loại bánh mỏng dẹt được làm từ nguyên liệu cơ bản bao gồm bột mì, trứng, sữa và bơ và không cần lò nướng. Người ta cho thêm bột nổi hoặc men và biến đổi một số công thức để bánh được mềm và xốp. Bánh Pancake có thể ăn không, ăn kèm với bơ, các loại syrup, các loại mứt hoặc kể cả hoa quả tươi. Tuy nhiên cách ăn phổ biến nhất vẫn là dùng với mật ong. Ưu điểm của món bánh này là tùy theo điều kiện và sự sáng tạo của người làm bánh. Có nhiều cách biến tấu ra các loại Pancake khác nhau, nên không sợ nhàm chán khi thưởng thức.
Nguồn gốc của bánh Pancake
Vào thời Người băng Ötzi bắt đầu chuyến đi cuối cùng cách đây 5.300 năm, bánh pancake dường như là một món ăn phổ biến. Ötzi, người được phát hiện trong một tảng đá ở dãy núi Alps của Ý năm 1991, đã cung cấp cho chúng ta rất nhiều thông tin về một người thời kỳ đồ đá mới dùng làm thực phẩm. Bữa ăn cuối cùng của anh ấy cùng với hươu đỏ và ibex nổi bật với lúa mì Einkorn. Đây là giống lúa mì có niên đại hàng ngàn năm và là một trong những loại ngũ cốc được trồng đầu tiên. Những mẩu than mà anh ta dùng cho thấy nó ở dạng bánh pancake, được nấu trên ngọn lửa.
Tuy vậy, hầu hết các nhà sử học về thực phẩm đều cho rằng món ăn giống như bánh pancake sớm nhất. Được gọi là Alita Dolcia (“another sweet ” trong tiếng Latin). Người La Mã ở Thế kỷ 1 sau công nguyên đã tạo ra nó từ sữa, bột mì, trứng và gia vị. Chúng có thể được bán ngay khi còn nóng nóng ở các góc của quảng trường, phiên bản đầu tiên của gian hàng bánh crepe hiện đại ngày nay. Thay vì cho chúng vào xi-rô, họ đã sử dụng mật ong để làm bánh pancake trở nên ngọt.
Bất kể tuổi của bánh pancake nguyên thủy là bao nhiêu cũng một dạng thức ăn cổ xưa. Điều này minh chứng sự phổ biến của loại bánh truyền thống văn hóa trên toàn cầu. Người Hy Lạp và La Mã cổ đại ăn bánh pancake, làm ngọt bằng mật ong. Người Elizabeth đã ăn chúng với hương vị của gia vị. Kèm theo nó là nước hoa hồng, sherry (một loại rượu vàng hoặc nâu) và táo.
Bánh Pancake đã lan rộng ra các nước Châu Âu
Vào thế kỷ 15, tại nhiều nước châu Âu, người ta đã tự làm ra các loại bánh pancake. Họ đã sử dụng một loạt các thành phần như lúa mì, kiều mạch. Đôi khi còn chứa cồn bằng cách dùng rượu hoặc bia Ale. Loại bia Ale là loại bia có lịch sử ra đời cách đây hàng ngàn năm. Thêm vào đó là các loại thảo mộc và gia vị như đinh hương, quế và nhục đậu khấu. Ở Friesland (một tỉnh ở Hà Lan) vào thế kỷ 18, bữa ăn sáng của đám cưới truyền thống là pannenkoek với sữa và mật ong. Công thức làm bánh pancake từ khắp nơi trên thế giới tạo ra nhiều hình thức khác nhau. Từ bánh crepe Pháp mỏng, bơ cho đến món Okonomiyaki thơm ngon, giòn của Nhật Bản.
Ở các thuộc địa của Mỹ, bánh pancake được gọi là hoe cakes, johnnycakes, hay flapjacks. Chúng được làm bằng kiều mạch hoặc bột ngô. Amelia Simmons’s American Cookery được cho là cuốn sách nấu ăn toàn Mỹ đầu tiên, xuất bản năm 1796. Có hai công thức làm bánh pancake. Một cho “Johny Cake, hoặc Hoe Cake,”, gọi là sữa, “Indian meal,” và mật mía. Một công thức khác cho “Indian Slapjack,”với mật đường chảy nhỏ giọt, nhưng thêm bốn quả trứng.
Sự quan trọng của bánh pancake đối với phương Tây
Văn hóa phương Tây dành hẳn một ngày gọi là “thứ Ba Pancake” (Shrove Tuesday, Pancake Tuesday, Pancakeday, Fat Tuesday). Ngày này được tổ chức vào ngày thứ Ba trước thứ Tư lễ Tro theo lịch Công giáo. Họ tổ chức lễ hội với những cuộc thi làm pancake, ăn pancake. Đó là ngày cuối cùng trước Mùa Chay. 40 ngày kiêng truyền thống trước khi lễ Phục sinh được thực hành bởi các Kitô hữu. Phong tục này là làm trống kho chứa tất cả đường, chất béo và trứng. Làm như vậy để tránh cám dỗ và giảm sự hoang phí.
Cuộc đua Pancake hàng năm dành cho các phụ nữ ở thị trấn Olney, Anh vào năm 1445. Kể từ năm 1950, cuộc đua đã trở thành một sự kiện quốc tế, với các tay đua Olney cạnh tranh với phụ nữ của Liberal, Kansas.
1980. Hỗn hợp bánh Pancake đầu tiên mang thương hiệu Aunt Jemima được sản xuất bởi Công ty Phay RT Davis. Bà Nancy Green, người kể chuyện, đầu bếp và nhân viên truyền giáo, làm phát ngôn viên. Bà Green được sinh ra ở Montgomery County, Kentucky. Cô đóng nhân vật dì Jemima cho đến khi qua đời vào ngày 23 tháng 9 năm 1923. Năm 1937, Công ty Quaker Oats đã đăng ký nhãn hiệu Aunt Jemima.
Giải thưởng flipping-a-pancake-while-running-a-marathon (lật bánh trong khi chạy Marathon) thuộc về Dominic “Mike” Cuzzacrea. Người đã hoàn thành cuộc đua marathon năm 1999 tại Thác Niagara trong thời gian 3 giờ, 2 phút và 27 giây. Ước tính trong suốt cuộc đua, anh đã lật bánh mỗi 1,8 giây 1 lần.
Cuzzacrea cũng giữ kỷ lục ném bánh pancake cao nhất ở độ cao 31 feet, 1 inch, mà anh đã thiết lập vào năm 2010.
Theo Từ điển Di sản Hoa Kỳ, cụm từ “phẳng như bánh pancake” đã được sử dụng từ những năm 1500. Nó được dùng để mô tả mọi thứ từ phụ nữ ngực phẳng đến vùng hẻo lánh của Úc.
Chiếc bánh pancake khổng lồ
Với đường kính trên 49 feet và nặng 6614 pounds, chiếc bánh lớn nhất thế giới được sản xuất tại Manchester, Anh vào năm 1994 bởi Co-operative Union, Ltd. Dĩ nhiên, một điều đương nhiên, để đủ điều kiện đạt kỷ lục, chiếc bánh kếp khổng lồ phải được lật và ăn được.
Nhà hàng Opus One của khách sạn Radisson Blu Edwardian ở Manchester, Anh. Nơi này đã giữ vị trí tầm cỡ của ngành ẩm thực. Nguyên nhân là đã phát minh ra “bánh Pancake đắt nhất thế giới” vào năm 2014. Nó trị giá £ 800 (khoảng $ 1050 ngày nay). Nhưng ít nhất nó chứa những nguyên liệu đắt tiền như: tôm hùm, trứng cá muối và rượu sâm banh Dom Perignon.
Tổng hợp từ internet